<!—->
Tuy không phải là cao lương mỹ vị nhưng từ bao đời nay, tương Nam Đàn vẫn được biết đến là thương hiệu mang nét đặc trưng riêng của xứ Nghệ.
Nghề làm tương ở Nam Đàn đã có từ rất lâu, ban đầu chỉ một số hộ làm nhưng đến nay, gia đình nào cũng biết làm tương. Với nguồn nguyên liệu dồi dào, nhân công dày dặn kinh nghiệm, hiện nay, làm tương là một trong những nghề mang lại thu nhập cao, giải quyết việc làm cho nhiều lao động nông thôn, sản phẩm đã khẳng định được uy tín trên thị trường cả nước. Thăm nhà kho của những hộ làm tương chuyên nghiệp, chúng tôi tận mắt chứng kiến được mô hình làm tương không đơn giản. Người Nam Đàn làm tương cầu kỳ ngay từ khâu chọn nguyên liệu, những chai tương được làm ra là cả một quá trình kết tinh nhiều yếu tố. Phải chăng vì thế mà đến tận bây giờ, nó vẫn còn ngọt lịm trong ký ức của những người con xa quê hay những người đã có dịp ghé qua đây.
Dù đã được bịt kín mấy lần nhưng mùi thơm nồng nàn, ngọt lịm từ những bao mốc tương vẫn bốc lên thơm lừng. Bác Phạm Hải Đường, Khối trưởng kiêm Trưởng làng nghề làm tương Phan Bội Châu (thị trấn Nam Đàn) cho biết: “Ở bất cứ thời điểm nào, người dân Nam Đàn vẫn giữ những nguyên tắc vàng khi làm tương”. Gia đình bác cũng vậy. Mỗi năm bác đầu tư hàng trăm triệu đồng, làm hết hơn 1 tấn nếp, hàng chục tấn muối và năm nào cũng để 5 – 6 chum tương bán Tết, bởi tương càng để lâu càng ngọt và thơm. Đầu năm 2010, làng tương Phan Bội Châu được công nhận là làng nghề truyền thống. Hiện, làng có trên 200 hộ, trong đó hơn 30 hộ làm tương chuyên nghiệp, hàng năm cung cấp cho thị trường 400.000 – 500.000 lít tương. Trung bình mỗi hộ sản xuất 30 – 40 chum tương/năm. Tương Nam Đàn không hề dùng hóa chất, có vị ngọt đậm đà. Nhờ chung thủy với cách làm thủ công truyền thống, cầu kỳ mà sản phẩm này được nhiều người biết đến. Ở TP. Vinh có rất nhiều nhà hàng, khách sạn lớn sử dụng tương Nam Đàn. Và thật đáng tự hào khi trong dịp Đại lễ kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, tương Nam Đàn cũng được đem ra trưng bày, giới thiệu tại Thủ đô.
Xác định nghề làm tương là nghề cổ truyền, chính quyền địa phương luôn có chính sách quan tâm, tạo điều kiện để làng nghề phát triển. Đặc biệt, huyện Nam Đàn đang khuyến khích người dân trồng 300 – 400ha đậu tương truyền thống, tránh phụ thuộc vào nguyên liệu ở bên ngoài như hiện nay. Để ai đặt chân đến vùng đất này, có dịp được nếm tương Nam Đàn, sẽ không quên câu ca chân chất:
“Ai về ăn nhút Thanh Chương
Dừng chân nếm thử vị tương Nam Đàn”.
Chuyên mục: Điểm đến Du lịch
Tổng hợp: OTA Việt Nam | Nguồn: TCDL -Trung tâm thông tin du lịch